Đi tìm hạnh phúc

0
2399

Trong triết học phương Tây, từ thời cổ Hy Lạp, cũng đã có cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) và chủ nghĩa khổ hạnh (asceticism), nhưng dưới những hình thức khác. Chủ nghĩa khổ hạnh Hy Lạp tuy không mang màu sắc tôn giáo, nhưng lại gắn liền với triết lý phủ nhận mọi giá trị của văn hóa, văn minh; coi văn hóa, văn minh là nguồn gốc của đau khổ, kêu gọi con người quay trở về với cuộc sống mông muội. Đó là lối sống của phái Xinich (Cynics) do Antixten (Antisthenes, khoảng 445 – 365 TCN.), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập và được Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope, khoảng 404 – 323 TCN.) phát triển. Phái này chủ trương thực hiện lối sống đạo đức bằng việc coi khinh và từ bỏ tất cả những thành quả của văn minh, văn hóa, sống một cuộc sống lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật.

Bên cạnh phái Xinich còn có phái Xtôít (Stoicism), hay còn gọi là phái Khắc kỷ, do Dênôn ở Xiti (Zeno of Citium, khoảng 334–262 TCN.) sáng lập, được nhà triết học Hy Lạp Epictetuyt (Epictetus, khoảng 55-135) và Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius (121-180) phát triển. Phái Xtôít cho rằng, vũ trụ được điều khiển bằng lý trí (logos), bằng luật lệ tuyệt đối. Người có lý trí là người hành động theo quy luật tự nhiên. “Hãy sống phù hợp với tự nhiên” là câu châm ngôn của phái Xtôít. Để đạt được hạnh phúc, phái Xtôít chủ trương sống có đạo đức, có lý trí, dửng dưng trước tất cả mọi ham muốn vật chất. Bằng cách chế ngự được ham muốn và xúc cảm, những người Xtôít tin rằng có thể

loại trừ được những tác động từ thế giới bên ngoài và tìm thấy sự yên bình bên trong tâm hồn.

Đối lập với các khuynh hướng khắc kỷ nêu trên, chủ nghĩa khoái lạc cũng phát triển mạnh trong suốt lịch sử triết học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại. Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430-350 TCN.), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ, đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao.

Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp. Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được.

Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus, 341 – 271 TCN.) sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính. Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính chỉ có thể đạt được bằng lý trí. Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và sự cẩn trọng. Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với bè bạn và cùng đàm luận triết học với họ. Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau.

Ở thế kỷ XVIII và XIX, những nhà triết học Anh, như Gierơmi Bentam (Jeremy Bentham, 1748 – 1832), và Giôn Xtuat Minlơ (John Stuart Mill, 1806 – 1873) đã đề xuất học thuyết khoái lạc phổ quát, được gọi là chủ nghĩa vị lợi (utilitarianism). Theo Bentam, tiêu chuẩn cuối cùng của hành vi đạo đức của cá nhân là làm điều lợi cho xã hội theo nguyên tắc “hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất” (the greatest happiness for the greatest number). Minlơ đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Bentam. Song, khác với Bentam, Minlơ đã phân biệt sự khác nhau về chất giữa các loại khoái cảm (pleasures). Ông cho rằng, những khoái cảm tinh thần và đạo đức cao hơn những khoái cảm vật chất. Cũng có sự khác nhau giữa hạnh phúc (happiness) và sự mãn nguyện (contentment), “thà làm một Xôcrát không thỏa mãn còn hơn một tên ngu đần mãn nguyện”. Minlơ cũng phân biệt những trình độ cao thấp của hạnh phúc, chẳng hạn, thưởng thức nhạc kịch (opera) là hạnh phúc ở trình độ cao hơn so với việc chơi những trò chơi trẻ con đơn giản, mặc dù chúng có thể làm cho nhiều người vui thích hơn là đi xem biểu diễn nhạc kịch. Cũng theo Minlơ, những người ít học thức thường chạy theo những khoái cảm đơn giản, tầm thường; chỉ có những trí thức mới hiểu biết được giá trị của những khoái cảm tinh thần ở trình độ cao.

Thuyết vị lợi của Minlơ đã được nhiều nhà triết học chấp nhận và tán dương, vì nó khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, tầm thường, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên một trình độ khác khi đề cao giá trị tinh thần, chủ nghĩa vị tha, gắn khoái cảm của cá nhân với việc đem lại hạnh phúc cho xã hội: cá nhân càng làm điều lợi cho xã hội thì càng cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn.

Kế thừa những yếu tố hợp lý trong lịch sử triết học, triết học Mác – Lênin đã đưa ra một cách tiếp cận duy vật và biện chứng về vấn đề hạnh phúc. Trước hết, triết học Mác phản đối những quan điểm hạnh phúc mang tính chất ảo tưởng, cực đoan. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác coi mục đích của sự phê phán tôn giáo là “xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân”, là “vứt bỏ khỏi những xiềng xích các bông hoa giả… và giơ tay hái lấy bông hoa thật”(2).

Theo quan điểm duy vật lịch sử, “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”(3). Như vậy, hạnh phúc của con người trước hết phải là hạnh phúc của những cá nhân con người đang sống. Mọi quan niệm, tiêu chuẩn về hạnh phúc do xã hội đặt ra, nếu không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của cá nhân, thì mãi mãi chỉ là những lý tưởng thuần túy.